Chính sách đối ngoại của một quốc gia là sản phẩm của nhiều lực lượng, thường là đối lập nhau, nhưng là những lực lượng tương đối rõ ràng. Điều này đặc biệt rõ rệt trong lịch sử ngoại giao của các nước được thiết lập lâu đời trên vũ đài chính trị thế giới. Hệ quả của các nhân tố như vị trí địa lý, dân số, tài nguyên kinh tế, lịch sử và ý thức hệ thường được dẫn giải như những yếu tố quyết định chủ yếu của chính sách đối ngoại. Ít nhất, những yếu tố quyết định đó xuất hiện để đặt ra các giới hạn cho việc thực hiện chính sách đối ngoại nói chung của một quốc gia cụ thể.
Tuy vậy, việc phân tích chính sách đối ngoại theo nghĩa đó trở nên quá máy móc; thường không xem xét được những yếu tố ngẫu nhiên và phi lý vốn có trong mọi sự kiện của con người. Hơn nữa, trong trường hợp các quốc gia mới độc lập, nghiên cứu các yếu tố quyết định này thường chẳng có tác dụng mấy trong việc tìm hiểu các chính sách đối ngoại của họ. Hoàn cảnh ra đời của các nhà nước độc lập, tính ngẫu nhiên của các cuộc đấu tranh cay đắng giành sống còn, sự thiếu kinh nghiệm của họ trong thăng trầm của quan hệ quốc tế có thể dẫn đến những năm tháng hành động ban đầu cách xa với những gì rút cục được coi là giới hạn “bình thường” trong chính sách đối ngoại. Một đất nước cần có thời gian để ổn định. Việc xem xét hồ sơ quốc tế trong những năm mới ra đời của một quốc gia có thể không thật sự mang lại nhiều bài học cho xu hướng chính sách đối ngoại có thể có trong dài hạn.
Điều đó có thể rất đúng với trường hợp Nam Việt Nam. Hoàn cảnh ra đời đầy bạo lực khi trở thành một quốc gia độc lập năm 1954, và lịch sử u sầu của nó từ thời đó, có vẻ đã bóp méo chính sách đối ngoại đến mức vượt xa khỏi ngoài biên giới của cái được cho là giới hạn tự nhiên của nó. Từ khi độc lập, Nam Việt Nam đã phải tập trung hoàn toàn vào cuộc đấu tranh để đơn giản có thể tồn tại như một thực thể độc lập. Trong quá trình đó, sự phát triển trong quan hệ giữa Sài Gòn và các nước khác đã bị ảnh hưởng to lớn, và sự tiến hóa từ từ của một chính sách đối ngoại “bình thường” – phản ánh những gì rốt cục có thể trở thành các quyền lợi kinh tế, chính trị “truyền thống” và các quyền lợi khác của quốc gia – đã bị hao mòn.
Tất cả điều đó nhanh chóng trở nên rõ ràng khi tìm hiểu diễn biến chính sách đối ngoại của Nam Việt Nam dưới chế độ Ngô Đình Diệm. Đây là một giai đoạn nghiên cứu cực kỳ thú vị và vô cùng quan trọng nhằm hiểu được chính trị đương đại, không chỉ ở Đông Nam Á mà trên cả thế giới. Nhưng tình hình suốt thời Diệm và sau khi ông bị lật đổ trở nên thật sự bất thường khiến ta chần chừ khi khái quát hóa các xu hướng dài hạn của chính sách đối ngoại từ hồ sơ lịch sử. Trong khía cạnh này, các chế độ khác nhau sau Diệm kể từ tháng 11/1963 đã thể hiện sự nối tiếp những bất thường của giai đoạn Diệm. Thật sự mà nói, truyền thống chính sách đối ngoại “bình thường” của Nam Việt Nam vẫn chưa được tạo ra.
Bài viết này muốn đánh giá hồ sơ của Nam Việt Nam trên trường quốc tế suốt thập kỷ nắm quyền của Diệm. Nó không nhằm mục đích diễn giải lịch sử có hệ thống về chính sách đối ngoại của Việt Nam Cộng hòa trong giai đoạn mười năm đó bởi hồ sơ tư liệu vẫn còn hoàn toàn thiếu thốn cho mục đích ấy. Do đó, trong khi chúng ta xem xét các chủ đề chính của chính sách đối ngoại dưới thời Diệm, phân tích này đặc biệt nhằm truyền tải một số điều về chất lượng và “hương vị” của chính sách, và xem xét một số định kiến cơ bản đã tạo nên bản chất của việc hình thành chính sách ấy.
Tầm quan trọng tương đối của chính sách đối ngoại
Ngô Đình Diệm thống trị chính phủ Nam Việt Nam trong gần một thập niên, từ khi nhận chức tháng 7/1954 cho đến khi bị ám sát tháng 11/1963. Chế độ của ông để lại dấu ấn mãi mãi lên lịch sử đương đại của Việt Nam và Đông Nam Á. Các sai lầm bi kịch và những cơ hội bị đánh mất trong các năm cầm quyền của ông, và tình hình u ám xung quanh việc ông bị lật đổ, đã làm lu mờ các thành tựu hiển nhiên của Diệm, nhất là trong những năm 1950. Hồ sơ trong lĩnh vực đối ngoại đặc biệt đáng lưu ý. Nhìn chung, tuy có một số khuyết điểm rõ ràng, việc thực hiện công tác đối ngoại suốt thời Diệm nắm quyền là điều đáng khen.
Ở một chừng mực đáng kể, chính sách đối ngoại của Việt Nam Cộng hòa (VNCH) suốt giai đoạn này là chính sách của chính Ngô Đình Diệm. Mặc dù ông thường dựa vào các nhóm cố vấn thường xuyên bị thay đổi, cả về đối ngoại và đối nội,[1] bản thân Diệm là nhân tố quyết định trong việc hình thành chính sách trong ít nhất mười năm sau đó cho đến khi ông ngày càng phụ thuộc vào người em Ngô Đình Nhu. Các Ngoại trưởng của Diệm, kể cả Vũ Văn Mẫu – người giữ chức Bộ trưởng trong gần hết thời gian đó, đóng vai trò tuy đáng kể nhưng vẫn mang tính bổ trợ.[2] VNCH không có John Foster Dulles.
Tuy vậy, chính sách đối ngoại không phải là mối bận tâm thường trực của Diệm. Để yên tâm, ông quan tâm sâu sắc đến thế giới quanh mình, và đặc biệt chú ý tới diễn biến ở các nước có ảnh hưởng trực tiếp đến Việt Nam. Nhưng Diệm và các đồng nghiệp chủ chốt của mình trong chính phủ là những tay chơi nghiệp dư thật sự về chính sách đối ngoại. Nhìn chung, Diệm giảm thiểu tầm quan trọng của tình hình quốc tế đối với đất nước mình, và đánh giá thấp những đóng góp mà một nền ngoại giao mang tính xây dựng có thể đem lại cho sự nghiệp của chính ông ta. Ông nắm bắt tin tức khá tốt về các sự kiện, nhưng thường không nắm được tầm quan trọng thật sự của chúng. Thường thì ông đơn giản chỉ là thờ ơ với những gì các cường quốc nước ngoài nghĩ về tình hình Việt Nam; đôi khi ông lại phản ứng dữ dội với các bình luận ở những nước khác, và thăm dò liên miên để tìm kiếm ý nghĩa giấu dưới những phát ngôn chính thức thường lệ nhất. Thói quen làm việc lộn xộn của Diệm gây trở ngại nghiêm trọng cho việc nghiên cứu có hệ thống đối với các vấn đề chính sách đối ngoại, hoặc với việc nghiên cứu xuyên suốt cần có để chuyển tải những ý tưởng đơn thuần thành hành động có suy tính. Hơn nữa còn có khuynh hướng thâm căn cố đế là cá nhân hóa và cảm xúc hóa quan hệ với các nước khác. Các tiêu chuẩn đạo đức hà khắc của Diệm thường gây cản trở. Ông vô cùng khinh thường Thái tử Sihanouk của Campuchia và Tổng thống Sukarno của Indonesia, ít nhất một phần là do ông không ủng hộ họ về mặt cá nhân. Không may là sự không tán thành này ảnh hưởng nghiêm trọng đến ngoại giao của VNCH với cả hai nước.
Nhưng cách giải thích quan trọng nhất cho sự thờ ơ tương đối với chính sách đối ngoại là bản thân Diệm phải chú tâm vào các vấn đề nghiêm trọng ở mặt trận đối nội, thu hút tâm trí và năng lượng của ông đến mức không còn quan tâm đến điều gì khác: thiết lập và củng cố sức mạnh chế độ, xử lý dòng người tị nạn từ miền bắc, xử lý các bè phái và lập hòa bình cho đất nước, áp dụng biện pháp khôi phục kinh tế ở miền nam. Trên tất cả là mối đe dọa sống còn, bao trùm và thường trực từ miền bắc Cộng sản, một đe dọa mà sau năm 1957 đã chuyển thành cuộc chiến tranh du kích liên tục mở rộng trong lãnh thổ VNCH nhằm lật đổ chế độ Diệm. Trong hoàn cảnh đó, việc chú ý đến chính sách đối ngoại chỉ là lúc có lúc không. Các giai đoạn quan ngại mạnh mẽ xen kẽ với những thời kỳ gần như là lơ là, và tiêu chuẩn chủ yếu [cho khác biệt này-ND] thường là mối quan hệ trực tiếp của các vấn đề ngoại giao với tình hình nội bộ và việc duy trì chế độ. Các chủ đề nhận được chú ý hơn gồm có hệ quả của các Hiệp định Geneva (trong giai đoạn ngay sau Geneva), sự rút lui của người Pháp (những năm đầu), sự công nhận quốc tế và xây dựng tính hợp pháp (đặc biệt trong những năm 1950), quan hệ với Hoa Kỳ (một vấn đề thường xuyên), Campuchia, và luôn luôn có vấn đề tiến thoái lưỡng nan khủng khiếp trong cách xử lý với miền bắc. Nhưng trong khi có các chính sách đơn lẻ để giải quyết từng trường hợp cụ thể, hầu như không có gì trong chính sách toàn diện nhằm xây dựng hướng đi của cả nước trong tình hình thế giới.
Đã có một vài nỗ lực để xây dựng một cơ quan đối ngoại hiệu quả và phục vụ ngoại giao chuyên nghiệp, nhưng không đạt được mấy thành tựu. Diệm và các Ngoại trưởng Trần Văn Đỗ, Vũ Văn Mẫu đều không có tài về phục vụ ngoại giao; và một nhóm các “gia đình dòng dõi” nắm vị trí then chốt do các chế độ Bảo Đại trước đó chỉ định. Khâu tổ chức bị thiếu vắng, và trong hầu hết các trường hợp, những phái viên này thường dùng bài nhắc vở từ các đồng nghiệp Pháp ở nhiều thủ đô khác nhau nhiều hơn là từ chính phủ của mình ở Sài Gòn. Nhiều thanh niên trẻ có khả năng được chính phủ Diệm đưa vào phục vụ ngoại giao, trong số đó có thể kể đến Trần Kim Phượng, người đã thể hiện vô cùng tốt trong nhiều năm ở Kuala Lumpur và Singapore. Năm 1959, cùng với một số người có cùng suy nghĩ mới được tuyển dụng vào phục vụ ngoại giao, ông nộp đơn từ chức cho Diệm và Nhu trong một phản ứng đầy xúc cảm trước mối hận thù giữa các gia đình trong bộ ngoại giao. Đơn từ nhiệm của ông bị từ chối và ông tiếp tục vị trí của mình.[3]
Tương đối ít cá nhân trong cơ quan ngoại giao được cử ra nước ngoài để được đào tạo có hệ thống. Diệm đảm bảo là các thủ đô quan trọng nhất có những đại sứ tương đối có năng lực; nhưng về cơ bản, lựa chọn của ông mang đậm cảm tính. Do đó, Trần Văn Chương, một người Việt Nam yêu nước có lòng tự trọng là người bạn tin cậy và bạn tâm tình của Diệm (và là cha của Madame Nhu), được cử sang Washington, nơi nhiệm vụ cơ bản của ông là đảm bảo Mỹ tiếp tục ủng hộ chế độ Diệm.[4] Em trai của Diệm, Ngô Đình Luyện, được bổ nhiệm là Đại sứ lưu động ở châu Âu, với trách nhiệm cụ thể ở cả London và Paris. Hoàng tử Bửu Hội phục vụ như đại diện của VNCH ở vô số hội nghị quốc tế. Nhưng ở những nơi khác thì việc bổ nhiệm ngoại giao thường là để gạt bỏ những người không mong muốn. Thường thì các sứ quán đầy những chính trị gia, công chức, sĩ quan quân đội và những người “lưu vong vàng” mà Diệm không còn tin cậy.[5] Mỗi đại sứ thường mang theo tùy tùng cá nhân; và mỗi người thực hiện nhiệm vụ theo cách riêng, với hướng dẫn chung chung từ Diệm và bộ ngoại giao. Trong hoàn cảnh đó, việc thực hiện một nền ngoại giao chuyên nghiệp, bài bản để theo đuổi một chính sách quốc gia được tính toán kỹ lưỡng (mà trong trường hợp nào đi nữa vẫn chưa tồn tại) hầu như là điều không thể, mặc dù các nhà ngoại giao Việt Nam đơn lẻ có những năng lực không phải nghi ngờ gì. Thậm chí đến cuối những năm 1960, cơ quan phục vụ ngoại giao của VNCH vẫn vụng về và hầu như không hiệu quả. Đây là một nguyên nhân lý giải cho chính sách đối ngoại của chế độ Diệm cũng như cho tính không hiệu quả về hành chính đặc trưng ở các cấp hoạch định chính sách của chính phủ.
Sự cần thiết phải liên kết
Diệm tiếp cận việc thực hiện chính sách đối ngoại với một số định kiến cơ bản. Có lẽ quan trọng nhất là việc ông tin chắc vào việc các nước nhỏ cần liên kết (với một nước lớn – NBT) một cách rõ rệt trong Chiến tranh Lạnh trên nền tảng realpolitik [chính trị hiện thực – ND] cũng như tin vào tính vô đạo đức của chính sách không liên kết.
Diệm đã có lần nghĩ khác. Một mặt ông luôn chống Cộng khủng khiếp song trong những ngày lưu vong, Diệm từng là người thể hiện ý tưởng về một lực lượng châu Á thứ ba trong tình hình quốc tế. Theo khái niệm này, các quốc gia mới độc lập của châu Á có thể đóng góp hiệu quả nhất cho hòa bình thế giới nếu can dự chính trị với một trong những bên đóng vai chính của Chiến tranh Lạnh. Ấn Độ là người lãnh đạo hợp lý của khối các quốc gia châu Á không liên kết này, và Diệm hình dung ra vai trò phù hợp của Việt Nam là một trong những nước nhỏ quan trọng ủng hộ sự lãnh đạo của Ấn Độ trên thế giới.
Tuy thế, khi nhận chức vào tháng 7/1954, Diệm đã thay đổi cơ bản tư duy của mình. Giờ đây ông thấy thế giới tất yếu bị chia ra làm ba phe: liên minh thế giới tự do, khối Cộng sản, và các nước không liên kết. Việt Nam nên nằm ở phe nào? Ông ngày càng quan ngại về tính dễ bị tổn thương về chính trị của một nước nhỏ như Việt Nam trước sự tấn công và lật đổ vô hạn của Cộng sản; và ông kết luận rằng cách duy nhất để rút ra khỏi thế tiến thoái lưỡng nan này là thông qua liên kết chặt chẽ với khối chống Cộng. Vận mệnh đáng tiếc của nước ông hiển nhiên đã tạo ra thay đổi này trong suy nghĩ của Diệm. Nhưng trong hoàn cảnh nào đi nữa thì việc chống cộng sản tích cực cũng thích hợp hơn với đặc điểm trí tuệ và cảm xúc của ông ta.
Về khía cạnh này, ta có thể nhớ rằng anh cả của Diệm là Ngô Đình Khôi và con trai ông đã bị phe Cộng sản chôn sống năm 1945; và Diệm là một tín đồ Công giáo La Mã mộ đạo, phản đối sâu sắc chủ nghĩa cộng sản về phương diện tôn giáo.
Trong Chiến tranh Lạnh, nơi trú ẩn của một nước nhỏ không phải là chính sách không liên kết mà là liên minh thân thiết với một cường quốc lớn chống Cộng. Trong trường hợp của Việt Nam, không thể giao vai trò cường quốc bảo vệ cho Pháp, một phần là vì hồ sơ lịch sử của Pháp ở Đông Dương và nỗi căm ghét mà Diệm có chung với đồng bào mình đối với chủ nghĩa thực dân Pháp. Là quốc gia cường mạnh nhất thế giới và là lãnh đạo của liên minh thế giới tự do chống chủ nghĩa cộng sản, Hoa Kỳ là lựa chọn hiển nhiên. Hơn nữa, đến năm 1954, liên minh chặt chẽ với Hoa Kỳ trở thành lựa chọn chính sách ngày càng thực tiễn với Việt Nam trong bối cảnh đầu những năm 1950, Washington ngày càng quan tâm hơn đến số phận Đông Dương. Do đó, Diệm chọn mối liên hệ với Mỹ và một khi đã chọn như vậy, ông ta không bao giờ từ bỏ điều đó trong định hướng quốc tế cơ bản của mình.
Cùng với thời gian, Diệm trở nên ám ảnh với việc cần phải có liên kết trong Chiến tranh Lạnh, và các quan điểm của ông có những hàm ý đạo đức mạnh mẽ. Những cân nhắc về đạo đức cá nhân có lúc còn chồng lấn lên các đòi hỏi của chính sách công. Chủ nghĩa cộng sản là xấu xa, do đó phải bị đánh bại bằng mọi phương tiện có trong tay. Diệm không thể hiểu tại sao các nhà lãnh đạo châu Á khác lại không nhận thức như vậy về mối hoạ Cộng sản và hệ quả đạo đức, chính trị của mối hoạ này đối với chính sách đối ngoại. Mặc dù ông nhìn thấy sự khôn ngoan trong việc nuôi dưỡng quan hệ thân thiện với các quốc gia đang nổi lên của châu Á cũng như của châu Âu và Mỹ Latin song cách tiếp cận của ông chẳng có gì giống với sự phân chia (các nước trên thế giới) sau này của Sukarno thành “các thế lực đang nổi mới” và “các thế lực cũ”. Các quốc gia mới độc lập nên chọn phe. Ông đồng ý với việc Ngoại trưởng Dulles lên án chủ nghĩa trung lập là sai trái về đạo đức. Các phái viên của VNCH ở nước ngoài do đó được hướng dẫn phải thuyết phục các chính phủ không liên kết nơi họ có nhiệm vụ cũng như các nhân vật hàng đầu ở những nước này về sự cần thiết phải có liên kết. Chuyện này khiến các nhà ngoại giao Việt Nam nhiều lần gặp rắc rối nghiêm trọng vì đã can thiệp vào công việc nội bộ của nước khác.[6]
Diệm cũng không đạt được nhiều tiến bộ trong việc cải đạo những người ngoại đạo. Ông đã đánh giá sai khả năng thuyết phục các nước không liên kết để chỉnh sửa định hướng quốc tế của họ theo hướng ủng hộ liên kết mở chống những người Cộng sản. Tuy không tạo được thay đổi ở những điểm đó, Diệm đã nhìn thấy việc đáng duy trì quan hệ thân thiện với các nước không liên kết miễn là họ thật sự không liên kết. Nhưng ông hoàn toàn khinh bỉ các chính phủ và lãnh đạo đi theo cả hai lề của con đường chính trị. Về mặt này, Sihanouk và Sukarno là những kẻ côn đồ hàng đầu. Ông cũng coi thường chả kém những bên thứ ba, ví dụ như những người Mỹ có thiện chí mà theo cách nhìn của ông, đây là những người cho phép các lãnh đạo Campuchia và Indonesia lừa bịp mình.
Với bản thân ông, VNCH nhất định và rõ ràng đứng trên mặt trần hàng đầu của liên minh thế giới tự do, dẫn đầu là Hoa Kỳ, trong cuộc chiến chống chủ nghĩa cộng sản. Về phương diện này, Diệm nhiều lần nêu đi nêu lại quan điểm rõ ràng của mình. Một hệ quả thú vị của lập trường rõ rệt này là Diệm khen ngợi lộ liễu quan hệ chính trị của VNCH với Hoa Kỳ. Ông chào đón mối liên hệ Mỹ và dòng tài trợ khổng lồ về quân sự và kinh tế từ đó. Ông cũng chẳng ngần ngại thể hiện sự trân trọng ấy trong những dịp phù hợp. Nhưng ông không cảm xúc hoá thực tế. Trong phán xét của ông, Hoa Kỳ đơn thuần chỉ đang phục vụ lợi ích quốc gia của họ chứ không phải của Việt Nam khi viện trợ ồ ạt cho VNCH hay gánh các chi phí cho việc bảo vệ nó dưới cái ô liên minh SEATO (Khối phòng thủ chung Đông Nam Á – NBT). Điều đó cũng đúng, và nó đã kiềm chế đáng kể lòng biết ơn của Diệm với Hoa Kỳ.
Nguồn: William Henderson & Wesley R. Fishel, “The Foreign Policy of Ngo Dinh Diem”, Vietnam Perspectives, Vol. 2, No. 1 (Aug., 1966), pp. 3-30.
Biên dịch: Vũ Thị Hương Giang | Biên tập: Lê Hồng Hiệp
(Còn tiếp phần 2, xuất bản ngày 26/2/2015)
(Nghiên Cứu Quốc Tế)
—————
[1] Đúc kết từ hơn hai thập niên hoạt động bí mật chống người Pháp và Cộng sản, trong đó ông học được không phải lúc nào cũng dựa được vào những đồng sự thân cận, Diệm có xu hướng phụ thuộc nhiều vào các thành viên trong gia đình và bạn bè thân hữu. Những người trong cụm này đôi khi thay đổi khi người nước ngoài rút ra hoặc bị rút ra khỏi Sài Gòn, và trong quá trình đó, khỏi các vị trí có ảnh hưởng trực tiếp và liên tục. Một số thành viên gia đình và bạn bè Việt Nam thân thiết đôi khi bị thay thế bởi các thành viên và bạn bè khác, và bị đẩy sang một bên vì nhiều lý do khác nhau. Không giống các lãnh đạo Thái Lan, những người có truyền thống rất sắc sảo trong việc dùng chuyên gia và cố vấn nước ngoài, Diệm chưa bao giờ thật sự biết cách tận dụng tối đa từ các cố vấn của mình. Quan hệ chung của họ thất thường tùy theo Diệm và, tùy hoàn cảnh, từ chỗ là bạn tâm tình đến người cố vấn và được cố vấn; hay đến người thầy và học trò (ở trường hợp cuối cùng thì người này lại có thể đóng vai người kia).
[2] Theo thứ tự, các ngoại trưởng của chế độ Diệm là Trần Văn Độ, 1954-55; Vũ Văn Mẫu, 1955-63; và Phạm Đăng Lâm, 1963.
[3] Những người khác nộp đơn từ chức khi đó cũng quyết định ở lại, trong khi một số người thật sự từ bỏ chức vụ và công việc chính phủ
[4] Trần Văn Chương đồng thời là Quốc vụ khanh trong nội các đầu tiên của Diệm, một vị trí cho thấy sự coi trọng của Diệm dàn cho ông.
[5] Ví dụ, Trần Chánh Thành, cựu Bộ trưởng Thông tin, Đại sứ tại Tunisia; Bùi Văn Thinh, cựu Bộ trưởng Nội vụ, Đại sứ tại Nhật Bản; Lâm Lễ Trinh, cựu Bộ trưởng Nội vụ, Công sứ tại Thổ Nhĩ Kỳ; Nguyễn Dương Đôn, cựu Bộ trưởng Giáo dục, Công sứ tại Italy. Tại các nước châu Á và châu Phi, vị trí thường dành cho những người trẻ hơn là người được đỡ đầu của Ngô Đình Luyện hoặc Trần Kim Tuyến, Giám đốc Sở Nghiên cứu Chính trị và xã hội Phủ tổng thống, và là cộng tác viên của Ngô Đình Nhu.
[6] Ví dụ, Tổng Lãnh sự VNCH ở New Delhi là chủ đề của lời phàn nàn tuy không chính thức song có ngôn từ mạnh mẽ từ chính phủ Ấn Độ vì những mối liên đáng nghi ngờ của ông với những nhóm chính trị đối lập cực đoan ở Ấn Độ.
[7] Ngay từ giữa tháng 4/1954, Diệm đã hiểu rằng “người Pháp muốn hợp tác với Việt Minh để đạt được ngừng bắn nhằm trao cho Việt Minh các phần miền bắc và trung Việt Nam, những vùng tập trung đông dân cư và những nhân tố mạnh mẽ nhất cần có cho vị thế quân sự cũng như chính trị.” Đáp lại tình hình này, Diệm và nhiều đồng nghiệp theo chủ nghĩa dân tộc khác đã phát động phong trào trong người Việt ở Pháp và đồng thời ở Việt Nam để tổ chức bầu cử nhanh ra một quốc hội ở những vùng phi Cộng sản của đất nước nhằm chấm dứt chế độ Bảo Đại, thành lập một chính phủ có trách nhiệm, “công nhận độc lập của một Việt Nam thống nhất (đối ngược với phương án của Pháp nhằm thương lượng đình chiến với Hồ Chí Minh, vốn sẽ làm cho chúng ta mất miền bắc và miền trung),” thiết lập nền dân chủ và đáp ứng kêu gọi của Diệm nhằm tập trung toàn bộ dân số sau lưng ông cũng như sự nghiệp dân tộc này. (Thư của Ngô Đình Diệm gửi Wesley R. Fishel, ngày 16/4/1954). Song các diễn biến Geneva diễn ra quá nhanh đối với những người theo chủ nghĩa dân tộc Việt Nam, và trong khi Bảo Đại bị thúc giục phải bổ nhiệm Diệm làm thủ tướng của mình, Diệm bị bủa vậy bởi những hạn chế về quyền tự do hành động khiến ông và chính phủ mới của mình không thể ảnh hưởng đến kết quả của các thảo luận ở Geneva. Hơn nữa, trong tình cảnh bấp bênh ở Geneva, như Diệm và các đồng bào buộc phải công nhận cho dù đau đớn, là sự dẫn đến nội chiến ở Việt Nam. Uy tính và vị thế quyền lực của các cường quốc đều liên quan và Việt Nam, nơi xảy ra đối đầu, chỉ là một con tốt mà thôi.
[8] Đọc những bình luận sau đây trong bài viết này. Những sự kiện bất thường trong giai đoạn Bình Xuyên đã dạy Diệm và em trai Ngô Đình Nhu rằng người Mỹ không phải lúc nào cũng suy nghĩ giống nhau, và rằng có thể khai thác sự chia rẽ giữa họ theo cách có lợi cho Việt Nam. Do đó, bất đồng giữa các sĩ quan của phái bộ quân sự Hoa Kỳ tại Sài Gòn và các quan chức của đại sứ quán Mỹ cũng như phái đoàn Phát triển Quốc tế Mỹ (AID) ở đó được Ngô Đình Nhu khéo léo sử dụng sau năm 1960; và có những dấu hiệu cho thấy tình hình đó tiếp tục cả sau khi chế độ Diệm sụp đổ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét